Tại sao chọn dịch vụ logistics của chúng tôi?

Dịch vụ vận chuyển của chúng tôi được biết đến là một trong những dịch vụ đáng tin cậy, an toàn và giá cả phải chăng, bởi vì chúng tôi tự hào cung cấp dịch vụ vận chuyển tốt nhất, với giá cả hợp lý nhất.

Đội ngũ chuyên gia hậu cần của chúng tôi sẽ tư vấn và hiểu các yêu cầu vận chuyển của bạn và đưa ra quy trình và dịch vụ hậu cần tùy chỉnh để phù hợp với yêu cầu kinh doanh của bạn theo cách cá nhân hóa. chính xác. Nó sẽ giúp giảm chi phí và tăng lợi nhuận. Dịch vụ vận chuyển của chúng tôi sẽ không chỉ cắt giảm chi phí, lợi ích của bạn sẽ được chuyển cho khách hàng và lợi nhuận ròng của bạn, điều này sẽ tạo ra một môi trường thúc đẩy tăng trưởng cho doanh nghiệp của bạn. và nâng cao danh tiếng thị trường của bạn.

Tất cả các tài xế trong mạng lưới hậu cần của chúng tôi đều có kinh nghiệm và được đào tạo đầy đủ về xử lý hàng hóa, những người đảm bảo vận chuyển các bưu kiện đến đích an toàn. Hầu hết các phương tiện trong mạng lưới hậu cần của chúng tôi đều được trang bị các công cụ cần thiết để thực hiện việc giao hàng. (dây đai bánh cóc, chăn, miếng bảo vệ góc, v.v.). Tất cả hàng hóa được vận chuyển trong mạng lưới hậu cần của chúng tôi đều được bảo hiểm theo các điều khoản tiêu chuẩn và số tiền bảo hiểm có thể được tăng lên theo yêu cầu của khách hàng với một khoản phụ phí. Chúng tôi có thể đảm bảo cho bạn rằng bưu kiện của bạn nằm trong tay an toàn khi chúng được chuyển đến mạng lưới của chúng tôi và hàng hóa sẽ được chuyển đến đích một cách an toàn. Làm việc với các đối tác chất lượng và trên toàn thế giới, chúng tôi có thể đảm bảo lô hàng của bạn được giao một cách chắc chắn và an toàn.

Trung tâm logistics không chỉ là cái kho!

Khi nói đến logistics, một hình ảnh quen thuộc hay được mọi người nghĩ đến là những con tàu chở đầy ắp container trên chặng hải hành viễn dương. Trên thực tế, dịch vụ kho bãi, giao nhận chiếm vị trí quan trọng không kém, và đây là khâu đem lại giá trị gia tăng nhiều nhất cho hàng hóa trong chuỗi các hoạt động logistics.

Khi nói đến logistics, một hình ảnh quen thuộc hay được mọi người nghĩ đến là những con tàu chở đầy ắp container trên chặng hải hành viễn dương. Trên thực tế, dịch vụ kho bãi, giao nhận chiếm vị trí quan trọng không kém, và đây là khâu đem lại giá trị gia tăng nhiều nhất cho hàng hóa trong chuỗi các hoạt động logistics.

Bên trong trung tâm logistics của U&I Logistics tại tỉnh Bình Dương.

Không chỉ là nơi lưu giữ hàng hóa

Một cách tổng quát, logistics là quá trình vận chuyển, lưu giữ và xử lý hàng hóa từ khi sản xuất cho đến người tiêu dùng. Trong cả chuỗi hoạt động này, hàng hóa luôn ở một trong hai trạng thái: động hoặc tĩnh. Động là khi hàng hóa nằm trên các phương tiện vận tải, di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Còn tĩnh là khi hàng hóa được lưu giữ, xử lý ở kho, bãi mà ngôn ngữ chung hiện nay gọi là trung tâm logistics.

Trước đây, trung tâm logistics chỉ có chức năng lưu giữ, do vậy hàng hóa không phát sinh thêm giá trị gia tăng gì. Nhưng với xu hướng hiện nay, trung tâm logistics không chỉ là nơi lưu giữ, bảo quản mà còn là nơi xử lý hàng hóa, qua đó đem lại thêm nhiều giá trị gia tăng cho hàng hóa.

Một doanh nghiệp Việt Nam khi tham quan trung tâm logistics ở Hà Lan đã ngạc nhiên khi thấy trung tâm này cũng chính là nơi thực hiện chức năng bảo hành cho mặt hàng máy kéo của Mỹ xuất sang châu Âu. Còn các hoạt động như chia tách lô hàng, đóng gói, dán nhãn mác thì đã rất phổ biến, và tuy đơn giản nhưng cũng giúp cho hàng hóa nâng cao giá trị lên nhiều.

Xét về chức năng, kho ngoại quan chính là một trung tâm logistics. Mua bán hàng hóa nằm trong kho ngoại quan là một nghiệp vụ rất phổ biến của các thương nhân. Một doanh nghiệp mua cà phê đưa vào kho ngoại quan ở Đồng Nai, sau đó có thể bán hàng ngay tại kho cho doanh nghiệp khác, để rồi lô cà phê đó có thể được xuất khẩu ra khỏi Việt Nam, hoặc cũng có thể được bán ngược trở lại vào Việt Nam, tất nhiên là với một mức giá cao hơn giá đã mua ban đầu.

Trung tâm phân phối (distribution center) cũng là một loại hình trung tâm logistics đang trở nên thịnh hành. Với loại hình này, khâu phân phối sẽ được rút ngắn một bước khi không phải đưa qua cửa hàng. Hàng hóa sau khi được thu gom vào trung tâm logistics sẽ được giao thẳng đến cho các đại lý hoặc người mua. Một doanh nghiệp Mỹ đã thuê một trung tâm logistics lớn ở Bình Dương để tập kết đồ gỗ sản xuất tại đây, sau đó giao thẳng đến các cửa hàng ở bờ Đông hoặc bờ Tây nước Mỹ.

“Theo cách làm trước kia, họ phải chở hàng từ đây về Los Angeles, rồi từ đó lại chia ra một phần để chở sang bờ Đông. Hiện nay, họ chỉ việc đưa ra yêu cầu, chúng tôi sẽ giao thẳng từ đây đến địa điểm chỉ định ở bờ Đông, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí”, giám đốc trung tâm logistics ở Bình Dương này chia sẻ.

Khác với các trung tâm logistics thông thường, trung tâm logistics phục vụ thương mại điện tử lại có một thiết bị đặc biệt là hệ thống chia chọn hàng hóa. Với số lượng hàng ngàn đến hàng chục ngàn món hàng được mua qua trang web và thiết bị di động mỗi ngày, nếu không có hệ thống này thì doanh nghiệp thương mại điện tử sẽ không thể nào giao hàng đến đúng người mua trong thời gian sớm nhất mà không bị nhầm lẫn, sai sót. Và nếu không làm được điều này thì những ưu thế của thương mại điện tử như mua hàng nhanh, có nhiều lựa chọn… cũng sẽ bị triệt tiêu.

Mặc dù còn ít, nhưng Việt Nam cũng đã có những trung tâm logistics hiện đại, tự động hóa hoàn toàn. Khách đến thăm trung tâm logistics của Vinamilk ở huyện Bến Cát, Bình Dương không khỏi trầm trồ khi chứng kiến một kho hàng được tự động hóa hoàn toàn.

Các sản phẩm mau hỏng như nông sản, thủy sản đòi hỏi một loại hình trung tâm logistics riêng, đó là kho lạnh hoặc kho mát. Các kho này đầu tư tốn kém hơn do phải trang bị hệ thống làm lạnh công suất lớn. Trung tâm logistics Mekong ở tỉnh Hậu Giang là một hình mẫu của loại hình này.

Một trong những điểm bất cập nữa là tình trạng phân mảnh trong quản lý nhà nước. 

Trong khi trung tâm logistics được giao cho Bộ Công Thương thì cảng cạn, kho ngoại quan – về chức năng cũng chính là các trung tâm logistics – lại thuộc quyền quản lý của Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Tài chính.

Quy hoạch chưa tương xứng

Trong những năm gần đây, số lượng trung tâm logistics tại Việt Nam đã tăng trưởng khá nhanh, tập trung nhiều nhất ở hai địa phương là Hải Phòng và Bình Dương. Nhiều người sau vài năm trở lại đã không thể nhận ra bán đảo Đình Vũ (Hải Phòng) khi ngày nay đã bị lấp kín bởi các trung tâm logistics.

Tuy nhiên, như nhiều chủ nhân của các trung tâm logistics này thừa nhận, đa số các trung tâm này còn rất thô sơ, chủ yếu làm chức năng đóng hàng hoặc rút hàng khỏi container, tập kết vỏ rỗng để chuyển trả hãng tàu hoặc giao cho các chủ hàng trong nội địa.

Trong bối cảnh nguồn lực đất đai có giới hạn và ngày càng trở nên khan hiếm, bất động sản logistics đang trở thành một khoản đầu tư có giá trị. Mặc dù không thể đem lại lợi nhuận cao ngay lập tức, nhưng các trung tâm này sẽ đem lại doanh thu ổn định khi khối lượng hàng hóa ngày càng gia tăng.

Nhiều nhà đầu tư đang ra sức săn tìm những khu đất ở gần các khu công nghiệp, đầu mối giao thông hoặc ven đô thị để xây dựng các trung tâm logistics.

Có thể thấy, quy hoạch không gian dành cho hoạt động logistics ở các địa phương lớn nói chung là chưa tương xứng với quy mô của hoạt động thương mại, công nghiệp. Tính đến cuối năm 2018, Hà Nội có chín khu công nghiệp, 43 cụm công nghiệp đang hoạt động và 84 cụm công nghiệp đang thành lập, 132 siêu thị, 454 chợ và hàng ngàn cửa hàng tiện dụng để phục vụ 7,78 triệu người dân Thủ đô. Mật độ sản xuất và dân số như vậy cho thấy hoạt động logistics trên địa bàn Hà Nội đang diễn ra sôi động như thế nào.

Tuy nhiên, ngoài trung tâm logistics của Interserco ở Mỹ Đình (sắp phải trả lại thành phố) và Hateco ở Long Biên, Hà Nội chưa có không gian đáng kể nào dành cho logistics, dẫn đến hoạt động logistics thiếu bền vững, chi phí cao, làm giảm tính cạnh tranh của các ngành nghề khác trong xã hội.

Ngày 3-7-2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1012/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Theo đó, sẽ có ba trung tâm logistics loại I, 15 trung tâm logistics loại II và ba trung tâm logistics chuyên dụng được xác định cần thiết đầu tư. Tuy nhiên, cách hiểu về quy hoạch này vẫn có sự khác nhau, và một số địa phương vẫn hy vọng là nơi trú đóng của một trong các trung tâm logistics này để có khoản đầu tư từ Nhà nước, trong khi đây chỉ là quy hoạch mở, mang tính định hướng và việc thu hút đầu tư phải do các địa phương tự tiến hành.

Một trong những điểm bất cập nữa là tình trạng phân mảnh trong quản lý nhà nước. Trong khi trung tâm logistics được giao cho Bộ Công Thương thì cảng cạn, kho ngoại quan – về chức năng cũng chính là các trung tâm logistics – lại thuộc quyền quản lý của Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Tài chính. Do vậy, việc quy hoạch của ba loại hình này do ba cơ quan khác nhau thực hiện, thiếu sự phối hợp với nhau cũng như phối hợp với quy hoạch hạ tầng giao thông. Tình trạng này dẫn đến sự chồng lấn, lãng phí nguồn lực xã hội và làm giảm hiệu quả hoạt động logistics.

Để trung tâm logistics phát huy vai trò lớn hơn nữa, là mắt xích thiết yếu trong chuỗi dịch vụ logistics, đem lại giá trị gia tăng ngày càng cao cho hàng hóa, cần có sự quyết liệt từ phía Chính phủ để thống nhất quản lý về trung tâm logistics. Bên cạnh đó, việc xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn về trung tâm logistics cũng là nhu cầu cấp bách để định hướng cho doanh nghiệp đầu tư.

Chuỗi cung ứng nông nghiệp trong đại dịch COVID-19

TCCS – Đại dịch COVID-19 gây ảnh hưởng sâu sắc đến các phân khúc của chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu. Cùng với những khó khăn về thiên tai, dịch bệnh, một lần nữa, đại dịch COVID-19 lại là phép thử đối với nền nông nghiệp Việt Nam. Nông nghiệp Việt Nam không chỉ cần bảo đảm an ninh lương thực, dinh dưỡng cho người tiêu dùng và sinh kế của người dân trong nước, mà còn phải tiếp tục hội nhập mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là cơ hội mới do các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đem lại.

Tác động của đại dịch COVID-19 đến chuỗi cung ứng nông nghiệp toàn cầu

Đại dịch COVID-19 xảy ra từ cuối tháng 12-2019 đã lan ra 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, tác động gần như đến toàn bộ các nền kinh tế thế giới và theo các cách thức khác nhau. Ngoài những thiệt hại về người và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người trên toàn thế giới, dịch bệnh còn gia tăng gánh nặng cho các nước do phí tổn của việc cách ly xã hội và ngăn chặn lây lan. Để đối phó với đại dịch, chính phủ các nước đã ban bố lệnh phong tỏa trên diện rộng, thực hiện giãn cách xã hội, đóng cửa trường học, công sở, các địa điểm kinh doanh không thiết yếu, hạn chế và tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc di chuyển con người, hàng hóa, phương tiện, nhanh chóng xúc tiến tiêm vắc xin diện rộng để chủ động tạo miễn dịch cộng đồng.

Ngày càng nhiều doanh nghiệp sản xuất phải tạm thời đóng cửa. Những doanh nghiệp còn hoạt động thì gặp phải hạn chế trong chuỗi cung ứng nguyên liệu và sản phẩm trung gian. Thêm vào đó, nhu cầu tiêu dùng giảm còn làm trầm trọng thêm những thách thức mà các nhà sản xuất phải đối mặt. Các nhà máy trên khắp nước Mỹ, châu Âu và châu Á đều báo cáo sản lượng sụt giảm trong thời gian qua. Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thương mại toàn cầu vốn đã chững lại trong năm 2019, tiếp tục đi xuống trong năm 2020 với mức giảm trên hai con số. Những tác động của đại dịch đối với chuỗi cung ứng nông nghiệp toàn cầu là rất lớn.

NĂM 2018, XUẤT KHẨU NÔNG, LÂM, THỦY SẢN ĐẠT MỨC KỶ LỤC 40 TỶ USD

Dây chuyền đóng gói sản phẩm gạo xuất khẩu tại Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ)_Ảnh: TTXVN

Thứ nhất, dưới tác động của đại dịch COVID-19, các biện pháp phong tỏa, cách ly và giãn cách xã hội đã làm giảm nguồn cung lao động, vật tư nông nghiệp đầu vào gây ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn cung nông sản và kèm theo đó là vấn đề bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu và sinh kế của người dân. Tại Ấn Độ, nông dân được yêu cầu tạm dừng các hoạt động thu hoạch nông sản cho đến khi lệnh phong tỏa hết hiệu lực và các chợ nông sản được mở cửa trở lại. Các biện pháp giãn cách xã hội làm cho công tác luân chuyển thực phẩm và hoạt động cung ứng vật tư nông nghiệp đầu vào phục vụ sản xuất giữa các vùng trở nên khó khăn.

Đại dịch và các biện pháp nhằm kiểm soát dịch bệnh làm gia tăng tình trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm, tăng nguy cơ mất an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng. Theo tổ chức Oxfam, đại dịch COVID-19 làm tăng số người bị mất an ninh lương thực khẩn cấp lên tới 270 triệu người trong năm 2020, tăng 82% so với năm 2019. Điều này, có nghĩa là từ 6.000 người đến 12.000 người có thể chết mỗi ngày vì nạn đói liên quan đến các tác động xã hội và kinh tế của đại dịch trong năm 2020. Trong đó, các quốc gia châu Phi sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất vì mất an ninh lương thực do COVID-19.

Thứ hai, các biện pháp phòng, chống sự lây lan đại dịch COVID-19 cũng đang ảnh hưởng đến khâu sau sản xuất trong chuỗi cung ứng nông nghiệp toàn cầu. Mặc dù nhu cầu với nông sản có xu hướng tăng lên nhưng các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, trang trại, người sản xuất nông sản lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường do những thách thức từ việc đóng cửa biên giới, phong tỏa cảng biển, tăng cường kiểm dịch đối với hàng hóa, phương tiện vận chuyển và người tham gia vận chuyển. Thêm vào đó, việc thiếu hụt nguồn nhân lực trong các khâu sau thu hoạch, bao gồm cả sơ chế, bảo quản, chế biến và phân phối hàng hóa cùng những thủ tục kéo dài vì phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của kiểm soát dịch bệnh đã làm gia tăng chi phí, đặc biệt là trong các hoạt động logistics (lưu trữ, kho bãi, luân chuyển hàng hóa, thủ tục hải quan…).

Thứ ba, bên cạnh thị trường xuất khẩu gián đoạn, đại dịch COVID-19 có thể làm suy giảm nhu cầu và thay đổi xu hướng tiêu dùng nông sản của người dân. Đại dịch COVID-19 làm cho nhiều doanh nghiệp đóng cửa, tạm dừng hoạt động, làm gia tăng tình trạng lao động thiếu và mất việc làm, suy giảm thu nhập. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đại dịch COVID-19 đã gây thiệt hại cho thị trường lao động lên đến 400 triệu việc làm toàn thời gian. Tổng thiệt hại thu nhập của người lao động do COVID-19 khoảng từ 860 tỷ đến 3.440 tỷ USD. Sụt giảm về thu nhập cũng dẫn đến sụt giảm chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ, thay vào đó, người tiêu dùng có xu hướng gửi tiết kiệm nhiều hơn(1).

Kèm theo đó, xu hướng tiêu dùng lương thực, thực phẩm cũng thay đổi trong đại dịch. Theo kết quả khảo sát người tiêu dùng Mỹ do công ty nghiên cứu thị trường PWC thực hiện về định hình lại hành vi người tiêu dùng trong dịch COVID-19 cho thấy, người tiêu dùng có xu hướng ưu tiên sử dụng những sản phẩm thuộc nhóm ngành hàng thực phẩm tiện lợi và gia vị, như các sản phẩm ăn liền, đồ hộp, mì gói (chiếm 27%); sản phẩm chăm sóc nhà cửa (chiếm 25%); sản phẩm đông lạnh (chiếm 25%); thực phẩm thiết yếu, rau quả tươi, sữa, các chế phẩm từ sữa (chiếm 12%),… Đồng thời, giảm tiêu dùng các loại đồ uống có cồn và có sự e dè với những sản phẩm nông sản tươi như thịt tươi, rau tươi và hải sản trong thời gian diễn ra dịch bệnh. Nhiều người tiêu dùng cũng dần chuyển sang mua bán online, mua hàng chế biến sẵn.

Chuỗi cung ứng nông nghiệp Việt Nam trong đại dịch COVID-19

Việt Nam là nước có năng lực cung mạnh đối với các sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy, nông nghiệp Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào thị trường xuất khẩu (khoảng 50% sản lượng các sản phẩm nông nghiệp được tiêu thụ thông qua xuất khẩu), đặc biệt là thị trường Trung Quốc, chiếm tới gần 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam.

Thời gian qua, ngành nông nghiệp Việt Nam chịu tác động tiêu cực đa chiều từ diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 đến các khó khăn khác, như hạn hán, xâm nhập mặn xảy ra ở cả 3 miền, thời tiết bất thường, thiên tai (dông lốc, mưa đá), dịch bệnh (đặc biệt là dịch tả lợn châu Phi). Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn duy trì tăng trưởng dương, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm ổn định, làm nền tảng cho ổn định chính trị – xã hội trong đại dịch COVID-19. Tăng trưởng GDP ngành nông, lâm, thủy sản năm 2020 đạt 2,68% (nông nghiệp tăng 2,55%; lâm nghiệp tăng 2,82%; thủy sản tăng 3,08%), tăng 0,67 điểm phần trăm so với tốc độ tăng GDP ngành năm 2019. Sang quý I-2021, ngành nông nghiệp tăng tốc, GDP tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước, đạt 3,16%. Kết quả này nhờ hệ thống các giải pháp khá đồng bộ và quyết liệt của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, như chuyển đổi mùa vụ phù hợp; theo dõi chặt chẽ tình hình cung – cầu trong nước; tổ chức kết nối sản xuất – tiêu thụ nông sản ở thị trường cả trong và ngoài nước; tăng cường mở cửa thị trường và tích cực xử lý các rào cản thương mại, kỹ thuật trong xuất khẩu nông, lâm, thủy sản…

Chế biến tôm xuất khẩu ở tỉnh Cà Mau_Ảnh: Tư liệu

Đại dịch COVID-19 gây ảnh hưởng đến hàng loạt các thị trường xuất khẩu lớn của nước ta; nhiều quốc gia đóng cửa biên giới, hạn chế nhập khẩu, làm cho xuất khẩu nông sản năm 2020 suy giảm nhẹ, đạt 18,5 tỷ USD (giảm 0,8% so với năm 2019). Xuất khẩu thủy sản đạt 8,4 tỷ USD (giảm 0.9% so với năm 2019). Tuy nhiên nhờ xuất khẩu lâm sản và đồ gỗ tăng mạnh (đạt trên 13,1 tỷ USD, tăng 13,4% so với năm 2019) nên tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2020 vẫn tăng so vơi năm 2019 (đạt 41,2 tỷ USD, tăng 2,6% so với năm 2019) (2).

Nét tích cực trong bối cảnh đại dịch là việc chuyển dịch thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản theo hai hướng: 1- Xuất khẩu giảm ở thị trường Trung Quốc, nhưng tăng trưởng ở thị trường Mỹ và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), ổn định hoặc suy giảm nhẹ ở các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc; 2- Tăng trưởng tích cực trong tiêu thụ nội địa đối với hàng nông, lâm, thủy sản nhờ các biện pháp kết nối cung – cầu quyết liệt của Chính phủ và các địa phương.

Thương mại mậu biên giảm mạnh do Trung Quốc đã quyết định kéo dài thời gian đóng cửa các chợ biên giới và tiếp tục tạm dừng hoạt động trao đổi hàng hóa cư dân biên giới. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản sang Trung Quốc giảm: Rau, quả đạt 1,84 tỷ USD, giảm 25,7%; thủy sản đạt 1,37 tỷ USD, giảm 3,3% so với cùng kỳ năm 2019.

Bên cạnh đó, số lượng đơn hàng giảm cùng với giảm giá(3) khiến cho giá trị xuất khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược giảm đáng kể so với năm 2019. Các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm mạnh gồm: cà-phê đạt 2,71 tỷ USD (giảm 4,2%), điều đạt 3,19 tỷ USD (giảm 3%); chè đạt 220 triệu USD (giảm 6,9%); tiêu đạt 670 triệu USD (giảm 6,8%); rau quả đạt 3,26 tỷ USD (giảm 13%); cá tra đạt 1,49 tỷ USD (giảm 25,5%); tôm sú đạt 575 triệu USD (giảm 16,3%)(4)

Đại dịch COVID-19 không chỉ gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu mà còn làm đứt đoạn các chuỗi cung ứng nông nghiệp, đặc biệt những ngành phải nhập khẩu đầu vào nhiều . Năm 2020, nhập khẩu vật tư nông nghiệp, như thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu giảm 10,6%; phân bón giảm 9,9%; thuốc trừ sâu và nguyên liệu giảm 25,6%. Nhập khẩu cây, con giống từ Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và nhiều nơi khác gặp khó khăn(5). Nguồn cung thiếu hụt đã làm tăng giá nhiều loại thức ăn chăn nuôi trong nước.

Do tác động của các lệnh phong tỏa, hạn chế đi lại – giao thương, hoạt động logistics trong chuỗi giá trị nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Quá trình vận chuyển, thông quan hàng hóa kéo dài hơn so với trước đây do các yêu cầu kiểm soát dịch bệnh theo quy trình chặt chẽ. Hàng hóa tồn kho, thời gian thông quan kéo dài đã làm tăng chi phí logistics. Trung bình chi phí logistics trong chuỗi giá trị nông nghiệp chiếm khoảng 20% – 23% tổng chi phí hàng nông sản xuất khẩu (riêng mặt hàng rau, quả tươi chi phí này lên tới 60% – 70%)(6). Năm 2020, chi phí logistics tăng cao, giá cước container biến động mạnh, tùy từng thị trường mà tăng 2-3 lần so với trước dịch. Chi phí logistics tăng chủ yếu do chi phí vận chuyển cao, thiếu container rỗng, các phụ phí và phí địa phương cao do các hãng vận chuyển nước ngoài áp vào cho chủ hàng, hạn chế về cảng và kết cấu hạ tầng, các tỉnh thành đưa ra các phí hạ tầng mới, chi phí về kiểm tra chuyên ngành.

Việc hạn chế giao thông, tắc nghẽn trong vận chuyển gây khó khăn cho việc mua bán sản phẩm kịp thời, dẫn đến nhiều loại nông sản bị hư hỏng hoặc phát sinh chi phí để duy trì, bảo quản nông sản, ví dụ như chi phí thức ăn nuôi cá trong thời gian chờ tìm nguồn tiêu thụ. Nông dân cũng thận trọng hơn và có tâm lý chờ đợi trước khi đầu tư vụ mới. Kết quả là suy giảm sản lượng, chất lượng và thu nhập của nông dân.

Trong thời gian tới, đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến khó lường. Tổ chức Y tế thế giới ((WHO) thậm chí mô tả tình hình đại dịch COVID-19 ở Ấn Độ “hơn cả đau lòng” do số ca bệnh và ca tử vong liên tục phá kỷ lục. Các nước láng giềng của Việt Nam, như Lào, Campuchia, Thái Lan, Philippin đều ghi nhận số ca nhiễm và tử vong tăng và áp dụng các biện pháp chống dịch nghiêm ngặt hơn. Các chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu có khả năng bị đứt gãy do các biện pháp phong tỏa, cách ly, thiếu hụt lao động và nguồn cung đầu vào. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp và có thể kéo dài trong thời gian tới, nguy cơ đứt gãy các chuỗi cung ứng nông nghiệp là vấn đề đáng quan tâm, vì nông nghiệp Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào thị trường xuất khẩu. Điều đáng lưu ý là các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Nhật Bản đều có chỉ số đứt gãy chuỗi cung ứng ở mức cao theo báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO).

Tại thị trường trong nước, suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế, thu nhập và tiêu dùng của người dân. Năm 2020 ghi nhận tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 2,91% – mặc dù vẫn tăng trưởng dương và là điểm sáng trong tăng trưởng kinh tế so với toàn cầu nhưng là là mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 10 năm qua(7). Suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các doanh nghiệp.

Thu nhập của cư dân nông thôn bị ảnh hưởng, đặc biệt đối với người lao động trong khu vực phi nông nghiệp(8). Trong khi đó, gói hỗ trợ của Chính phủ cho nhóm này chưa phát huy nhiều tác dụng. Có hiện tượng di cư ngược từ đô thị về nông thôn để kiếm việc làm và sinh kế do việc làm trong khu vực công nghiệp và dịch vụ đô thị suy giảm trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Điều này gây sức ép trong việc tạo việc làm nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn(9). Đồng thời, do sức ép về sinh kế và ưu tiên xử lý phòng chống dịch COVID-19, các mục tiêu phát triển môi trường bền vững có thể không được quan tâm đúng mức(10).

   Xuất khẩu sang thị trường EU có thêm xung lực từ EVFTA
Nông dân Hợp tác xã Long Trì (huyện Châu Thành, tỉnh Long An) thu hoạch thanh long xuất khẩu_ Ảnh: TTXVN

Trong thời gian tới, nông nghiệp cần được quan tâm mạnh mẽ để tiếp tục phát huy vai trò trụ đỡ cho nền kinh tế trong khủng hoảng. Vai trò bảo đảm an ninh lương thực, bảo đảm đầy đủ nguồn cung thực phẩm và dinh dưỡng của nông nghiệp đặc biệt quan trọng cho ổn định xã hội khi tiêu dùng lương thực, thực phẩm trung bình chiếm 47,3% trong tổng chi tiêu cho đời sống. Tỷ lệ này cao hơn với nhóm thu nhập trung bình và thấp, đạt từ 53% – 56% tổng chi tiêu cho đời sống bình quân tháng của hộ(11). Đồng thời, khu vực nông thôn còn là bệ đỡ cho sinh kế của trên 65% người dân trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trong thời gian tới. Thu nhập của lao động nông thôn nói chung sẽ bị suy giảm, đặc biệt đối với lao động phi nông nghiệp, lao động di cư (cả trong và ngoài nước) bị mất việc làm. Vì vậy, việc bảo đảm sinh kế cho cư dân nông thôn và nguồn cung lương thực, thực phẩm với giá cả hợp lý là yêu cầu ngày một cấp bách trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp trong thời gian tới.

Bên cạnh việc bảo đảm nguồn cung và năng lực cạnh tranh, cơ cấu sản xuất và phân phối hàng nông, lâm, thủy sản cũng cần thay đổi để đáp ứng nhu cầu mới của người tiêu dùng trong nước trong bối cảnh COVID-19. Đồng thời, cần tiếp tục theo dõi những hệ lụy về môi trường do sức ép của tình trạng di cư ngược thành thị – nông thôn do đại dịch COVID-19 gây ra.

Một số gợi ý đối với ngành nông nghiệp để ứng phó với đại dịch COVID-19 trong thời gian tới

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo đảm sinh kế cho người dân nông thôn, duy trì năng lực cạnh tranh và xuất khẩu, phát huy vai trò trụ đỡ cho ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, cần tạo ra một số đột phá chiến lược để ngành nông nghiệp Việt Nam thích ứng với điều kiện bình thường mới (và cũng rất bất định) do đại dịch COVID-19 gây ra trong thời gian tới. Một số gợi ý có thể xem xét bao gồm:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, trong đó tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tăng cường ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi từ chuỗi sử dụng nhiều lao động tập trung tại một địa điểm sang chuỗi phi tập trung, giảm tiếp xúc trực tiếp, áp dụng công nghệ số để liên kết chuỗi, truyền đạt thông tin dọc chuỗi kịp thời và minh bạch, bảo đảm truy nguyên nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng và an toàn thực phẩm, sẵn sàng cho các tình huống xấu nhất của đại dịch COVID-19 buộc phải áp dụng các biện pháp cách ly, phong tỏa chặt chẽ. Kèm theo đó, áp dụng số hóa mạnh mẽ trong hệ thống quản lý nhà nước và dịch vụ công trong ngành nông nghiệp (thủy lợi, khuyến nông, truy xuất nguồn gốc, quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm, hỗ trợ tiếp cận thị trường và tài chính…). Dự báo thường xuyên và cảnh báo sớm về cung cầu thị trường thông qua nhiều kênh, kể cả truyền hình, mạng internet, mạng xã hội…

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, tránh can thiệp làm gián đoạn xuất khẩu. Chủ động tham gia và tích cực đưa ra các đề xuất mới về mở cửa thị trường, thúc đẩy chuỗi toàn cầu tại các diễn đàn toàn cầu và khu vực nhằm phát triển và đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu; tích cực khai thác cơ hội của các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới mang lại. Xây dựng và quảng bá hình ảnh về nông nghiệp Việt Nam với tư cách là quốc gia có nguồn cung ứng lương thực, thực phẩm có trách nhiệm, minh bạch và bền vững.

Ba là, tăng cường phát triển thị trường nội địa, xây dựng các chuỗi cung ứng hoàn chỉnh cho thị trường nội địa, có kế hoạch dự trữ và dành luồng vận chuyển ưu tiên cho nông sản thực phẩm trong trường hợp khẩn cấp. Thúc đẩy tiêu thụ nông sản qua các kênh siêu thị và hệ thống cửa hàng tiện lợi. Đồng thời trong bối cảnh dịch bệnh, người tiêu dùng hạn chế mua hàng theo phương thức truyền thống, cần tăng cường hợp tác giữa người sản xuất với một số sàn thương mại điện tử để cung cấp giải pháp tiêu thụ nông sản qua các kênh online. Tuyên truyền nâng cao nhận thức và hướng dẫn người tiêu dùng về an toàn thực phẩm và lựa chọn thực phẩm.

Bốn là, ưu tiên đầu tư công và thu hút đầu tư tư nhân để từng bước làm chủ công nghệ đầu vào hiện đại cho sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến nông sản (sơ chế, bảo quản, đóng gói, đồ hộp, đồ ăn sẵn; đặc biệt đối với lương thực, thực phẩm thiết yếu, như gạo, rau, quả, thịt, sữa, thủy sản…); phát triển hệ thống logistics hỗ trợ chuỗi cung ứng nông sản, gắn kết với chuỗi giá trị toàn cầu nhằm đáp ứng nhu cầu mới của người tiêu dùng trên thế giới, trong đó đặc biệt lưu ý việc xây dựng các cảng biển, cảng cạn logistics quy mô lớn để trở thành trung tâm logistics nông sản cho khu vực Đông Nam Á. Thu hút các doanh nghiệp đầu tư xây dựng kho chứa, nhất là kho lạnh đáp ứng các yêu cầu/tiêu chuẩn bảo quản của các thị trường bằng các chính sách ưu đãi về tín dụng, đất đai, thuế. Rà soát và đổi mới chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt thu hút đầu tư của các đối tác lớn trong dòng chuyển dịch đầu tư toàn cầu thời gian gần đây vào hiện đại hóa, đồng bộ từ khâu sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến, phân phối cho chuỗi giá trị nông nghiệp.

Năm là, tập trung công tác đào tạo nghề, chuyển đổi việc làm, trang bị kỹ năng mới cho cư dân nông thôn, sẵn sàng đáp ứng sự thay đổi và nhu cầu mới của thị trường về cơ cấu, chất lượng hàng nông sản, ngành, nghề và dịch vụ nông thôn. Tập trung các gói hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển được thị trường và thông qua doanh nghiệp đào tạo lại, tập huấn, trang bị kỹ năng ngành, nghề cho người dân nông thôn.

Sáu là, chuẩn bị sẵn sàng chương trình phục hồi xanh nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới xanh, văn minh, thịnh vượng. Xây dựng hệ thống thông tin cảnh báo rủi ro do về thiên tai, dịch bệnh gắn với các gói hỗ trợ về tín dụng và hỗ trợ sinh kế trực tiếp trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và biến đổi khí hậu còn diễn biến phức tạp./.

——————————-

(1) Theo khảo sát của công ty phân tích dữ liệu và nghiên cứu thị trường dựa trên internet quốc tế YouGov cho thấy, tại Mỹ có 37% trên tổng số người được hỏi trả lời rằng họ sẽ tiết kiệm, trong khi đó, chỉ có 13% trả lời rằng họ sẽ chi tiêu. Ở Anh, tỷ lệ này thậm chí còn đáng báo động hơn, khi mà 58% người cho biết họ sẽ tiết kiệm và chỉ có 13% cho rằng họ sẽ chi tiêu. Tương tự ở các nước như Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ, Pháp, In-đô-nê-xi-a, Na Uy và Ca-na-đa, khoảng 40% người dân cũng chọn sẽ tiết kiệm
(2) Theo Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn năm 2020 và triển khai kế hoạch năm 2021 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(3) Theo Tổng cục Hải quan: Giá hầu hết các mặt hàng nông sản toàn cầu đã giảm lại càng giảm sâu hơn so với năm trước. Ví dụ như giá cà-phê xuất khẩu của Việt Nam giảm chỉ còn 1261 USD/tấn vào tháng 6-2020, kéo theo giá bán cà-phê của các hộ sản xuất cà-phê trong nước chỉ khoảng 30 nghìn đồng/kg cà-phê nhân. Thu nhập giảm khiến nhiều hộ bỏ vườn hoặc giảm đầu tư, chăm sóc. Tính trung bình giá cà-phê xuất khẩu năm 2020 thấp hơn 1,64% so với năm 2019. Năm 2020, giá hạt tiêu xuất khẩu bình quân ước đạt mức 2.313 USD/tấn, giảm 7,9% so với năm 2019; giá chè xuất khẩu bình quân ước đạt 1.608,5 USD/tấn, giảm 6,5% so với năm 2019. Giá nhập khẩu bình quân trái bưởi vào châu Âu đạt 903,7 euro/tấn, giảm 7,7% so với năm 2019…
(4) Chỉ có một số ít mặt hàng xuất khẩu được mùa, được giá như gạo ước đạt 3,07 tỷ USD (tăng 9,3%), cao-su đạt 2,38 tỷ USD
(5) Theo Liên minh Hợp tác xã, gần 70% thành viên không nhận được giống cây con, giá bán nông sản giảm 45% so với tháng 12-2019, kim ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc giảm 40%
(6) Bộ Công Thương: Báo cáo logistics Việt Nam năm 2019
(7) Trong đó, khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 2,68%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%; khu vực dịch vụ tăng 2,34%
(8) Khảo sát của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp, nông thôn năm 2020 cho thấy, khoảng 56% hộ nông thôn bị giảm thu nhập trong thời gian đại dịch COVID-19 bùng phát từ tháng 1-2020 đến tháng 3-2020 và trong giai đoạn sau đó do ảnh hưởng của các biện pháp nhằm kiểm soát dịch bệnh. Những hộ có nguồn thu nhập chủ yếu từ hoạt động phi nông nghiệp bị tác động tiêu cực nhất: 73% bị giảm thu nhập với mức giảm trung bình 46,8%. Trong những hộ có sinh kế chính từ sản xuất nông nghiệp, 52% số hộ bị giảm thu nhập với mức giảm trung bình là 29,4%. Trong số các hộ có thu nhập chính từ đi làm công ăn lương, 59% cho biết bị giảm thu nhập với mức giảm bình quân là 38,3%. Các tỉnh có biên giới chịu ảnh hưởng nặng hơn: Trung bình thu nhập của hộ ở các tỉnh biên giới giảm 41,4%, các tỉnh khác giảm 33,4%
(9) Theo khảo sát của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp, nông thôn, 66,3% số hộ có lao động đi làm xa đã bị tạm dừng hoặc nghỉ việc do đại dịch COVID-19. Khi bị mất việc, họ buộc phải trở về quê, điều này sẽ tạo áp lực đối với tạo việc làm nông thôn để tiếp nhận lao động hồi hương. Đồng thời, khi việc làm của lao động di cư bị giảm sút, tiền gửi của họ về gia đình, là thu nhập chính của nhiều hộ nông thôn, cũng bị giảm. Đại dịch COVID-19 cũng ảnh hưởng đến dòng kiều hối từ lao động của Việt Nam tại nước ngoài (đóng góp 6,4% GDP trong năm 2019) chuyển về nông thôn Việt Nam. Nghiên cứu của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) năm 2020 ghi nhận xu hướng dòng kiều hối đảo chiều, trong đó gia đình ở nông thôn gửi tiền cho người thân ở thành thị hoặc nước ngoài do mất việc làm. Dự kiến kiều hối tiếp tục giảm vì hàng triệu người Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài phải về nước hoặc không thể làm việc ở nước ngoài như dự kiến
(10) Theo đánh giá của UNDP (năm 2020) về tác động của nhiều yếu tố rủi ro gồm đại dịch COVID-19 và hạn hán xâm nhập mặn tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đại dịch COVID-19 làm chậm trễ thời gian thực hiện các dự án thích ứng, đặc biệt là ảnh hưởng tới các cộng đồng dự án do phải trì hoãn các hoạt động tăng cường năng lực và chuyển giao công nghệ thích ứng và một số địa phương phải tạm chuyển hướng các chính sách ưu tiên từ kế hoạch thích ứng với biến đổi khí hậu sang kiểm soát đại dịch và phục hồi kinh tế
(11) Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2018, mức này cao hơn so với các nước phát triển, ví dụ như ở Mỹ, nhóm hộ nghèo nhất chỉ dành 35% thu nhập để chi cho lương thực, thực phẩm

Tận dụng lợi thế, thúc đẩy thương mại nông sản Việt Nam-Liên bang Nga


Chiều 22/4, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Liên bang Nga đã có cuộc Họp trực tuyến nhóm công tác nông nghiệp Việt Nam-Liên bang Nga lần thứ 2 và Diễn đàn kinh doanh nông nghiệp Việt Nam-Liên bang Nga.

Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến cho rằng hai bên cần tiếp tục chỉ đạo tạo điều kiện mở cửa hơn nữa cho nông sản hai nước xuất khẩu vào nhau, tiến tới công nhận lẫn nhau để giảm các rào cản và đỡ mất thời gian xét duyệt từng doanh nghiệp trong cả lĩnh vực thủy sản và chăn nuôi.

Đây là cơ sở để doanh nghiệp hai nước tiếp tục thúc đẩy thương mại, tận dụng tốt nhất ưu đãi của Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á Âu (AEAU).

“Các doanh nghiệp 2 bên cần lưu ý và tận dụng Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á Âu. Hai bên cũng cần chỉ định hay giới thiệu các doanh nghiệp đầu mối có đủ khả năng để gom hàng nông sản mỗi bên tạo lợi thế quy mô và giảm chi phí logistics để kết nối các hệ thống siêu thị/phân phối,” Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho hay.

Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, hợp tác giữa Việt Nam-Liên bang Nga trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay chủ yếu là thương mại. Kim ngạch thương mại Việt-Nga hai chiều giai đoạn 2018-2020 vào khoảng 4,5 tỷ USD/năm; trong đó nông sản chiếm khoảng từ 18-20%, tương đương 900 triệu USD/năm. Con số này so với tiềm năng kinh tế và quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước có thể nói là vẫn khá khiêm tốn, cần cải thiện mạnh trong thời gian tới.

Các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu từ càphê, thủy sản, rau quả. Đối với nhập khẩu chủ yếu là sản phẩm lúa mỳ, thủy sản, gỗ, cao su và gần đây là thịt lợn.

[Doanh nghiệp Việt-Nga thúc đẩy hợp tác trong thời kỳ dịch COVID-19]

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, trong cơ cấu các mặt hàng, có thể nói các sản phẩm nông sản hai nước cơ bản không cạnh tranh trực tiếp với nhau mà bổ sung cho nhau.

Bởi vậy, hai bên cần tận dụng được lợi thế so sánh và các sản phẩm thế mạnh và đặc biệt biến thách thức thành cơ hội trong bối cảnh dịch COVID-19, góp phần cho mục tiêu tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chung đạt 10 tỷ USD như mục tiêu lãnh đạo hai nước đã đề ra.

Về xuất nhập khẩu sản phẩm động vật giữa hai nước, bà Nguyễn Thu Thủy, Phó Cục trưởng Cục Thú y đánh giá cao phía Liên bang Nga đã cấp phép xuất khẩu cho Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) và Nhà máy Chế biến thực phẩm Hà Nội thuộc Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam đã nộp hồ sơ đăng ký xuất khẩu thịt gà chế biến của Công ty Chế biến thực phẩm Bình Phước thuộc Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam cho Cơ quan Kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga xem xét.

Bà Nguyễn Thu Thủy đề nghị, Cơ quan Kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga đẩy nhanh tiến độ xem xét và chấp thuận nhập khẩu sản phẩm thịt gà chế biến của Công ty Chế biến thực phẩm Bình Phước.

Về nhập khẩu từ Nga, bà Nguyễn Thu Thủy cho biết, đối với các sản phẩm thịt (gà, bò, lợn, gia cầm), đến nay đã có 42 doanh nghiệp của Liên bang Nga được chấp thuận xuất khẩu thịt vào Việt Nam. Hiện nay, Cục Thú y đang tiếp tục xem xét đề nghị xuất khẩu trứng và sản phẩm trứng từ Liên bang Nga vào Việt Nam.

Về hợp tác trong kiểm dịch thực vật, đại diện Cục Bảo vệ thực vật cho biết, các sản phẩm cây trồng nhìn chung ít gặp khó khăn và vướng mắc vì hai bên đã ký Hiệp định về hợp tác trong lĩnh vực kiểm dịch và bảo vệ thực vật ngày 11/9/2000.

Đối với lúa mỳ nhập khẩu từ Nga đã được cơ quan chuyên môn hai bên đang phối hợp chặt chẽ kiểm soát mặt hàng này tạo điều kiện cho nhập khẩu như bình thường. Hai bên sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ để kiểm soát chất lượng, đảm bảo an toàn dịch bệnh, hỗ trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hai nước.

Về đầu tư, tính đến tháng 12/2020, Nga đứng thứ 25 trong số 144 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam với 139 dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký là 943,77 triệu USD.

Ngược lại, Việt Nam có khoảng 25 dự án đầu tư sang Liên bang Nga với tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng vốn gần 3 tỷ USD; trong đó lớn nhất là dự án xây dựng tổ hợp công nông nghiệp về sản xuất tập trung động vật gia súc và chế biến các sản phẩm sữa sử dụng công nghệ cao của Tập đoàn TH True Milk.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đề nghị phía Liên bang Nga phối hợp chặt chẽ để thúc đẩy hợp tác đầu tư nông nghiệp giữa hai bên. Kèm theo đó, tăng cường hợp tác khoa học công nghệ, liên doanh liên kết, đặc biệt công nghệ mới và công nghệ cao trong chế biến nông thủy sản nhằm giảm chi phí sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh.

Hai bên cần phối hợp chặt chẽ, thường xuyên tổ chức các diễn đàn hợp tác/xúc tiến thương mại trực tuyến và trực tiếp nhằm thúc đẩy thương mại và xử lý các vướng mắc kỹ thuật.

Ông Sergey Levin, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Liên bang Nga cho rằng, mặc dù gặp nhiều khó khăn do tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 trên toàn cầu nhưng hai bên vẫn thường xuyên có các cuộc tiếp xúc về thương mại và đầu tư với phương thức mới.

Diễn đàn doanh nghiệp thúc đẩy thương mại nông sản Việt Nam-Liên bang Nga diễn ra trong khuôn khổ cuộc họp nhóm công tác nông nghiệp Việt Nam-Liên bang Nga lần thứ 2 lần này có ý nghĩa rất quan trọng trong thúc đẩy hợp tác giữa hai bên để tiếp tục phát triển trên cả phương diện đối ngoại trong thời gian tới.

Thứ trưởng Sergey Levin cũng khẳng định về tiềm năng và triển vọng hợp tác nông nghiệp và tăng thương mại giữa hai nước. Phía Nga rất mong muốn phát triển và củng cố sự phát triển và mở rộng sự hợp tác giữa hai bên. Để củng cố quan hệ thương mại phát triển, Nga sẽ cử một đại diện sang Việt Nam hoạt động tại Đại sứ quán ở Hà Nội để tham gia các hoạt động này trong thời gian tới.

Tại diễn đàn, đã diễn ra lễ ký kết bản ghi nhớ về hợp tác kinh doanh giữa Tập đoàn Miratorg và Công ty Hương Việt. Theo đó, Tập đoàn Miratorg sẽ cung cấp các sản phẩm có thế mạnh của Liên bang Nga sang Việt Nam như các sản phẩm thịt, lúa mì… còn Công ty Hương Việt sẽ cung cấp các nông, lâm, thủy sản có thế mạnh của Việt Nam như thủy sản, cà phê, điều, hoa quả sấy dẻo… sang Liên bang Nga./.